Nỗi khổ khi yêu các nàng trong tử vi

Tù trưởng da đỏ

Nỗi khổ khi yêu 1 nàng Thái Âm: nàng ta ích kỉ, chỉ nghĩ đến bản thân mình mà thôi. Dù sao thì Thái Âm cũng chỉ yêu bản thân nhất mà. Thái Âm chung tình nhưng đòi hỏi sự quan tâm khắt khe, khó chiều lắm.

Nỗi khổ khi yêu 1 nàng Thiên Đồng: trẻ con, tình cảm tùy hứng. Chẳng có gu cụ thể. Cũng chẳng phải người nặng tình. Thích tùy hứng, bỏ cũng tùy hứng. Và cực kì dễ thích. Thế mới hay. Thiên Đồng chủ động lắm, nhưng hãy cẩn thận. Vì cũng thực tế, cũng tính toán lắm. Nhị hợp Tham Lang mà.

Nỗi khổ khi yêu 1 nàng Thất Sát: yêu theo bản năng, dễ đoán. Không thích là thẳng thừng, đừng có mơ nhiều, cũng chẳng có chút cơ hội nào đâu. Lỡ yêu Thất Sát thì cứ nên hỏi thẳng 1 câu: em ơi, em yêu anh không để anh còn biết đường, không yêu thì anh chuồn luôn.
Kể ra cũng là sướng chứ đâu phải là khổ. Chẳng mấy người đau tình vì yêu đơn phương người Thất Sát.

Nỗi khổ khi yêu 1 nàng Cự Nhật: ờ, thì nàng chẳng biết gu của nàng là Thái Âm hay Thiên Đồng. Mà nàng còn kết mấy anh chàng Thiên Phủ nữa kìa. Mấy anh Thiên Phủ cứ lo đi cung cúc các nàng, mà không biết rằng, các chàng chẳng bao giờ có cơ hội.
Các chàng Thái Âm và Thiên Đồng thì cứ chờ đi. Vì Cự Nhật nhìn thế mà ngu ngơ lắm, mộng mị lắm, chẳng nhìn ra bản chất của các chàng đâu. Chờ làm chồng các nàng thì được, chứ chờ làm ny các nàng thì mệt mỏi đó.

Nỗi khổ khi yêu 1 nàng Thiên Tướng: đơn giản thôi, chẳng bao giờ chiếm trọn được trái tim nàng ta. Trái tim nàng đa ngăn lắm, yêu vài anh, lại thích vài anh, cảm tình vài anh, và kết vài anh nữa. Nói chung Thiên Tướng rất dễ thích, rất dễ yêu.
Mà Thiên Tướng lại đa mang lắm, lại bền chặt và tốt bụng lắm. Nên anh nào lỡ yêu 1 người Thiên Tướng đã có ny thì cứ tập xác định là đau khổ. Vì 90% nàng ta sẽ có cảm tình với mình, nhưng lại không thể bỏ ny để theo mình được :)).

Nỗi khổ khi yêu 1 nàng Thiên Lương: ôi, thiên lương nàng ơi, có thể trẻ con, có thể nhí nhảnh, cũng có thể thâm trầm. Chứ trong tình yêu thì kín tiếng vô cùng. Với Thiên Lương, phải kiên trì, phải nhẫn nại, phải tán liên tục và bền bỉ. Nàng thích trong lòng, sướng trong lòng rồi đó, nhưng ứ chịu nói ra đâu. Độ gan lì của cái miệng phải nói là bậc nhất.
Tán được rồi à, đừng tưởng thế là xong, vì các nàng vô tư lắm. Có thể hay cười, hay nhí nhảnh, hoặc hay tâm tư, nhưng các nàng chẳng biết quan tâm chăm sóc, chẳng hỏi han từng tí một đâu. Các chàng tự mà làm những việc đó.

Nỗi khổ khi yêu 1 nàng Vũ Khúc: các nàng không có gu cụ thể. Nhưng có tiêu chí, đó là các nàng rất ham tài. Cứ chàng nào giỏi giang, thông minh, có đầu óc là các nàng mê. Tài thật, chứ chẳng chấp mấy cái tài vặt tài lẻ đâu. Các nàng thực tế lắm, nên cũng chẳng cần mấy thứ màu mè trẻ con đâu.
Yêu các nàng Vũ Khúc, chí phải lớn, đầu phải mạnh, và túi tiền cũng dày 1 tí. Đối với các nàng Vũ Khúc, các nàng không phân biệt được tình yêu, hay chỉ là sự mến mộ tài năng. Đó chắc là cái khổ.
Vì thế chẳng biết nàng sẽ bỏ mình lúc nào đâu. Đừng trách các nàng, chỉ trách mình kém cỏi mà thôi.

Nỗi khổ khi yêu 1 nàng Tham Lang: Tham Lang tuy tính toán, nhưng có cái hay là các nàng rất bản năng. Yêu là hết mình. Hứng là yêu. Yêu bất chấp mọi thứ. Nên tính toán thì tính toán. Vẫn chỉ là thứ yếu với các nàng.

Nỗi khổ khi yêu 1 nàng Thiên Phủ: trai Thiên Phủ trầm ngâm, chứ gái Thiên Phủ thì mạnh bạo lắm. Vậy nên gái Thiên Phủ rất dễ tiếp cận, rất dễ gần, nhưng yêu thì hơi khó. Vì nàng yêu ai nàng chủ động luôn, chẳng cần chàng tốn sức đâu.
Nhưng khó chịu hơn, các nàng Thiên Phủ rất biết cách quan tâm chăm sóc, kể cả với bạn bè. Cái độ quan tâm với bạn bè thì chẳng khác gì với ny cả. Nên ai lỡ yêu đơn phương 1 nàng Thiên Phủ, thì cứ đau ơi là đau, vì thoát thì không thoát được, mà tiến cũng chẳng tiến được.
Còn chàng nào may mắn mà làm ny của 1 nàng Thiên Phủ, thì cứ phải xác định là hạ máu ghen đến mức tối đa. Nếu không là suốt ngày phải ghen với các bạn của nàng đó.

Nỗi khổ khi yêu 1 nàng Cơ Âm: Cơ Âm Dần Thân, nhị hợp là Vũ Phá. Vậy nên các nàng dễ bị thu hút bởi những anh chàng ngầu ngầu, bụi bụi, lạnh lùng mà có nét hoang dã. Khổ cái những chàng như thế bất cần đời lắm, chẳng để ý các nàng Cơ Âm đâu, làm cho Cơ Âm phải khổ. Ai yêu Cơ Âm thì nhìn vào cũng thấy xót xa mà chẳng làm gì được. Cơ Âm không thích người nói nhiều đâu. Người nói nhiều, thích tâm sự thì chỉ làm anh trai của Cơ Âm mà thôi.
Cơ Âm kén chọn lắm, lại có chút ích kỷ nữa. Anh nào kiên trì thì chắc cũng tán được. Cơ Âm không cần quan tâm nhiều đâu, nhưng phải đúng lúc. Cơ Âm cũng không phải lãng mạn đâu, ny phải giỏi giang. Trí tuệ kém hơn Cơ Âm là Cơ Âm không thích đâu.
Mà yêu Cơ Âm là không được thất hứa. Vì sao à, vì Thái Dương cung Phu kìa. Lỡ thất hứa 1 lần, mất niềm tin 1 lần, là không bao giờ chiếm trọn được trái tim của Cơ Âm nữa đâu.

Hạn hôn nhân

Jade50280
Lập gia đình chỉ là một biến số chỉ liên quan đến hạn mà thôi, không phải là sự kiện xảy ra mãi mãi trong đời. Vì thế, xem việc lập gia đình là xem hạn, tức xét tất cả các cung ở thể đồng cung, xung chiếu, tam hợp, nhị hợp và cả nhị hại với cung Phu Thê.
Khi nào đại hạn, lưu niên đại hạn hoặc tiểu hạn vào đúng các cung này thì việc lập gia đình mới xác quyết. Tất cả các yếu tố này đều thể hiện rõ việc lập gia đình qua các nhánh tam hợp của chúng (lưu niên đại hạn và lưu niên tiểu hạn).
Muốn xét hôn nhân, phải kết hợp nhiều loại sao liên hệ: các sao chỉ tin vui, các sao tình duyên, các sao cưới hỏi, các sao hao tài. Cần nhất là trong hạn đó, phải tránh các sao cản trở.
1. Tìm đại hạn:
– Nếu cung Phu Thê có chỉ số cung là 2_ (ví dụ mệnh Thủy nhị cục là 22) thì thường lập gia đình không trễ hơn 31t (tuy nhiên vẫn có 1 số trường hợp đặc biệt, mình sẽ đề cập ở phần tình trạng không chồng không vợ).
– Nêu cung Phu Thê có chỉ số cung là 10_ (ví dụ mệnh Thủy nhị cục là 102) thì thường lập gia đình không sớm hơn 31t.
Đây chỉ là nhận định sơ bộ, cần kiểm chứng lại qua các đại vận kế cận liền kề. Phải cân nhắc các đại vận trươc đó để tránh lầm lẫn do có 1 số lá số hạn xảy ra ở đại vận trùng cung Huynh, chứ không phải cung Phu.
Tìm đại vận có hôn nhân qua phụ tinh và chính tinh. Phụ tinh đóng vai trò quan trọng hơn chính tinh.
a. Qua phụ tinh:
– Sao cưới hỏi: Long Trì, Phượng Các, Thanh Long, Thiên Đức + Phúc Đức
– Sao hỉ tín, sao trợ hôn:
* Thiên hỷ, Hỷ thần
* Thanh Long, Lưu Hà
* Thanh Long, Hoá kỵ
* Thiên Mã, Tràng Sinh
* Thiên Mã, Điếu khách, Thiên Khốc
* Ân quang, Thiên Phúc
* Tả Phù, Hữu Bật
* Long Đức, Nguyệt đức
– Sao tình duyên, sao tình dục, yêu đương:
* Đào hoa, Hồng Loan
* Thiên riêu, Thai
* Mộc Dục, Hoa Cái
– Sao chỉ bộ phận nhục thể của nữ và nam:
* Văn Xương, Văn Khúc
* Kình Dương
Tuy nhiên, ý nghĩa của các sao này khá yếu, cần thêm sự bổ trợ của các phụ tinh, chính tinh báo hỉ khác. Thường những cặp lập gia đình tại các đại vận có 3 sao trên luôn có sự chung sống (sống thử) trước khi tổ chức lễ cưới thật sự, hoặc theo đuổi tình dục trước rồi mới tính đến hôn nhân.
– Sao chỉ trạng thái khi ta có lập gia đình:
* Thiếu Dương + Thiên Không
b. Qua chính tinh:
– Thái Dương (miếu, vượng). Thái Dương tuy có ở thế hãm địa nhưng khi đi chung với Lộc Tồn, hoặc với nhiều sao trợ hôn cũng báo hỉ sự
– Thái Âm (miếu, vượng). Thái Âm tuy có ở thế hãm địa nhưng khi đi chung với Lộc Tồn, hoặc với nhiều sao trợ hôn cũng báo hỉ sự.
– Thiên Lương
– Thiên Cơ hoặc Thiên Đồng (chủ sự thay đổi)
– Tham Lang
– Liêm Trinh.
– Thiên Phủ + TỬ
– Thất Sát
c. Qua sao hối thúc:
Thông thường các hành Hỏa và Bắc đẩu là hai loại sao hối thúc, khiến hôn nhân dễ thành. Đặc biệt là những sao Phi Liêm, Hỏa Tinh, Linh Tinh có tác dụng hối thúc. Địa Không, Địa Kiếp, Thiên Không chỉ sự bất thần, đột ngột.
– Khi đại vận VCD có các sao này, được xung chiếu bởi Thái Dương, Thiên Lương thì càng xác quyết.
– Đại vận có sao hối thúc cần đi kèm sao chỉ quan hệ giao hợp nam nữ như Xương Khúc, Kình Dương, Thai, hoặc sao hao tài song Hao, Hóa Lộc, hoặc sao Thiên Khôi, Thiên Việt chỉ sự vừa ý, thì mới mang ý nghĩa hỉ sự.
Tuy nhiên những hôn nhân xảy ra vào đại vận thế này cũng ít khi tốt đẹp.
Lưu ý:
– Ngày nay, hôn nhân chủ yếu là do 2 người quyết định, nên đại vận có hôn nhân không được có các sao Cô Thần (hành Thổ), Quả Tú (hành Thổ), hoặc Đẩu Quân (hành Hỏa), vì ba sao này chỉ sự lẻ loi, xế bóng, cô đơn, kén chọn, có tác dụng ngăn trử việc lập gia đình. Càng hội tụ nhiều, sự ngăn trở càng mạnh, trừ phi gặp những sao tình duyên bù chế. Hành của cung đại vận cần xét không nên sinh ra hành của các sao này.
Ví dụ: Đại vận 16t-25t, tại cung Tuât có Quả Tú, nhưng không gây nguy hại, hôn nhân vẫn thành do Quả Tú cùng hành với cung Tuất.
2. Tìm năm :
– Tìm qua các sao chỉ lễ cưới: Long Trì, Phượng Các, Thanh Long, Thiên Đức + Phúc Đức. Mỗi lá số, ta đều có 2 dạng vòng tam hợp: 1 vòng tam hợp có chứa Thiên Đức + Phúc Đức (mà mọi người thường gọi là tam hợp Đào Hồng Hỷ), và 1 vòng tam hợp Long Phượng Thanh Long (không nhất thiết phải có đủ 3 sao này). Có 1 số trường hợp cả 2 vòng tam hợp này đều mang ý nghĩa hôn sự yếu ớt, bị nhiều sao cản trở hôn nhân gây hại, thì việc kết hôn ta tìm theo vòng tam hợp có chứa Quang Quý và các sao hỉ sự trợ hôn. Đám cưới có Quang Quý thường tình cảm đôi lứa khi tiến đến hôn nhân có phần khiên cưỡng, không nồng thắm. Ở lá số 2 đời vợ chồng, ta tìm hạn hôn nhân lần đầu qua tam hợp này. Ta sẽ thấy khi ấy Quang Quý hoặc năm có hôn sự luôn đi kèm, đồng cung cùng Khốc Hư, Phá, Cô, Quả, Điếu Khách, Tang Hổ, Phá Toái, Phục Binh.
– So sánh vòng tam hợp nào tốt đẹp hơn thì chọn. Đối với trường hợp đương số 2 đời chồng/ vợ, đời thứ 1 ta chọn hạn có tam hợp xấu hơn, đời thứ 2 chọn tam hợp tốt đẹp hơn.
– Năm âm lịch có hôn sự nằm 1 trong 3 gốc tam hợp này, và phải ở 1 trong các vị trí ảnh hưởng đến cung Phu Thê như đồng cung, xung chiếu, tam hợp, nhị hợp, nhị hại. Chi năm là lưu niên tiểu hạn an tại cung đó.
– Khi lưu niên tiểu hạn không ở các vị trí này thì 1 trong 3 gốc tam hợp của lưu đại hạn phải ảnh hưởng đến cung Phu, phải ở các vị trí này thì mới có hôn sự.
Đây là ý nghĩa mà mọi người thường nói “tiểu hạn và lưu đại hạn trùng phùng”
– Cưới theo tam hợp Thiên Đức + Phúc Đức, đôi lứa tự lo liệu việc cưới hỏi, từ vật chất đến việc tổ chức lễ tiệc.
– Cưới theo tam hợp Long Trì, Phượng Các, Thanh Long:
* Tam hợp là Dần (+) Ngọ (+) Tuất (+), trùng cung Phúc Di Phu, có sự hỗ trợ về mặt tài chính lẫn việc lo liệu của họ nhà chồng/ vợ, mà điển hình là người nam, người cha chồng/ cha vợ.
* Tam hợp là Thìn (+) Thân (+) Kim (+), ta cũng luận tương tự.
– Kiểm chứng lại gốc lưu niên tiểu hạn tìm được qua lưu đại hạn. Các nhánh tam hợp của lưu đại hạn đều phản ánh hỉ sự, và đều gây ảnh hưởng đến cung Phu Thê (qua xung chiếu, nhị hợp, nhị hại), không nhất thiết phải ở thể tam hợp với Phu Thê. Lưu đại hạn là cung ứng với tuổi dương lịch của đương số vào năm ta cần xét có cơ lập gia đình.
– Căn cứ vào sao chính tinh tọa thủ tại cung đại vận ta đã xác định được ở phần 1.
* Nếu là sao Bắc đẩu, 5 năm cần chú ý để xét hạn là 5 năm đầu của đại vận.
* Nếu là sao Nam đẩu, là 5 năm cuối.
* Trường hợp có cả Nam đẩu và bắc đẩu tọa thủ, dùng ngũ hành để tính sự tương khắc, tương sinh giữa hành của sao chính tinh và hành của cung đại vận. Ưu tiên chọn sao được hành cung tương sinh, hoặc không bị tương khắc.
* Trường hợp cung đại vận VCD, ta dùng chính tinh tại cung xung chiếu để xét. Nếu cung xung chiếu có cả 2 chính tinh thì cũng áp dụng ngũ hành như trên.Sao Bắc Đẩu
-Tử Vi

-Liêm Trinh

-Vũ Khúc

-Thái Âm

-Tham Lang

-Cự Môn

-Phá Quân
Sao Nam Đẩu
-Thiên Đồng

-Thiên Cơ

-Thái Dương

-Thiên Phủ

-Thiên Tướng

-Thiên Lương

-Thất Sát

– Đổi năm lưu niên tìm được sang năm dương lịch rồi lấy lá số an theo năm đó để xem và tìm nguyệt hạn, nhật hạn.
– Khi cung Phụ mẫu ở vào thể nhị hại hoặc nhị hợp, lại có các sao hối thúc tọa thủ thì hôn nhân năm đó xảy ra nhanh hơn dự tính ban đầu của đôi lứa. Phụ Mẫu an tại cung (-) thì bị hối thúc bởi mẹ chồng/ mẹ vợ, cung (+) thì cha chồng/ cha vợ.
3. Tìm nguyệt hạn:
– Việc tìm tháng cũng dựa chủ yếu trên sao chỉ lễ cưới: Long Trì, Phượng Các, Thanh Long, Thiên Đức + Phúc Đức hoặc Nguyệt Đức. Nếu có thêm sao hao tài Tiểu Hao, Đại Hao, Hóa Lộc thì càng xác quyết. Ba sao này vừa chỉ các chi phí vừa chỉ sự thay đổi, ngụ ý là thay đổi trong cuộc đời.
– Tuy nhiên, cần chú ý các sao bất lợi cho hôn nhân như sau:
* Cô Thần, Quả tú hay Đẩu Quân: Ba sao này chỉ sự lẻ loi, xế bóng, cô đơn, kén chọn, có tác dụng ngăn trửo việc lập gia đình. Càng hội tụ nhiều, sự ngăn trở càng mạnh, trừ phi gặp những sao tình duyên bù chế.
* Thái Tuế, Quan phù, Quan phủ: Thái Tuế đối nghĩa với Đào, Hồng, vì vậy làm cản trở sự kết duyên. Quan phù, Quan phủ chỉ sự phản bội, sự ruồng dãy trong tình yêu.
* Phục Binh: Sao này chỉ sự cản trở, thường là bắt nguồn từ cha mẹ bên trai hay gái không tán thành duyên số cho đôi trẻ. Nếu sao này an tại cung (-) chỉ sự chê bai lúc đầu về đối tượng hôn phối từ phía người mẹ của đương số. Nếu sao này an tại cung (+) là từ phía người cha của đương số. Mặt khác, sao này còn chỉ cả sự phá hại, rình rập, bắt ghen, bắt xấu.
* Địa Không, Địa Kiếp hãm địa: Không Kiếp hãm chỉ sự xui xẻo Triệt mọi phương diện. Ứng vào hạn của hôn nhân Không Kiếp hãm làm cho việc cưới hỏi bất thành, trai gái phải đau khổ vì mối tình bất toại, đôi khi đưa đến hậu quả tai hại cho tính mạng.
* Phá Quân hãm địa: Sao này không bao giờ có lợi cho hôn nhân và cho hạnh phúc lứa đôi. Hạn rơi vào, việc lập gia đình sẽ bị tan vỡ. Ngoài ra, nếu hạn rơi vào cung nào có Chính Tinh hãm địa thì cũng bất lợi cho tình duyên.
* Tuần, Triệt: Dù riêng rẽ hay đồng cung mà Tuần, Triệt đi chung với các sao hôn nhân kể trên sẽ có tác dụng phá vỡ, làm chậm trễ, làm khó khăn cho hôn nhân. Nếu cả hai đồng cung ở hạn, đó thì sự bế tắc quan trọng. Trong trường hợp hợp đơn thủ mà gặp sao xấu tại cung hạn, sự khó khăn, trắc trở xảy ra trong buổi đầu: hôn nhân sẽ đến chậm. Tuy nhiên nguyệt hạn vẫn an tại cung này, Tuần Triệt chỉ mang ý nghĩa gây chậm trễ về nhật hạn mà thôi.
– Cung ta cần chọn để xác định nguyệt hạn phải có Long Trì, Phượng Các, Thanh Long, Thiên Đức + Phúc Đức, Nguyệt Đức (Nguyệt Đức bắt buộc phải có các sao hỉ tín, trợ hôn đi kèm, và không bị gây hại bởi các sát tinh thì mới mang ý nghĩa hôn sự, nếu không chỉ là nguyệt hạn về tháng có lễ dạm hỏi, nói chuyện giữa 2 bên thông gia thôi)
– Cung cần chọn không nên có các sao gây bất lợi hôn nhân kể trên, hoặc có Thiên Hư, Tuế Phá, Phá Toái, Tử Phù. Nếu có, các sao này cần bị khắc chế bởi hành cung, hoặc cùng hành với hành cung thì mới không gây ảnh hưởng đến nguyệt hạn này. Cung này mình gọi là cung (*) để tránh lầm lẫn.
– Từ cung nguyệt hạn (*) đã chọn, ta sẽ có 2 chỉ số đều mang tính âm lịch: chỉ số tiểu hạn tại cung và chỉ số nguyệt hạn an theo năm dương lịch có hôn sự. Ta phải xét lại lần nữa để chọn 1 trong 2 chỉ số này => Đây mới là nguyệt hạn cần tìm.
– Tháng Dần tương ứng với tháng 1 âm lịch. Từ chỉ số nguyệt hạn, ta đổi sang tháng dương lịch của năm đó (có thể dùng trình http://www.nomna.org để tra nhanh và chính xác hơn). Lá số có 12 cung, tương ứng với 12 tháng dương lịch. Từ chỉ số tháng dương lịch đã đổi sang, xét cung có chỉ số tháng tương ứng. Nếu ý nghĩa chỉ lễ cưới của cung này rõ rệt hơn cung (*), ta phải chọn cung này và ngược lại.
– Khi chọn cung (*), ta đổi chi tháng hôn nhân (tý, sửu, dần….) có sẵn trên lá số sang tháng dương lịch.
– Khi chọn cung kia, chỉ số nguyệt hạn tại cung này sẽ là tháng âm lịch có hôn sự.

4. Tìm nhật hạn:
– Ngày có hôn lễ sẽ gây ra hao tài, nên các sao cần quan tâm để tìm nhật hạn là Tiểu Hao, Đại Hao, Hóa Lộc.
– Trước tiên, ta cũng xác định khoảng 15 ngày âm lịch nào cần chú ý, dựa trên chính tinh an tại cung của nguyệt hạn đã tìm được ở bước 3. Nếu có Tuần Triệt, cho dù Bắc đẩu tinh tọa thủ, nhật hạn cũng vẫn rơi vào 15 ngày cuối của tháng.
Chọn theo thứ tự các ưu tiên sau (Phần này hơi trừu tượng 1 chút):
1/ Phải thấy được sự hiện hữu của các sao này qua cung đó.
2/ Không bị khắc, làm yếu đi bởi hành cung. Không được sinh xuất từ hành cung.
3/ Không bị các sao gây bất lợi cho hôn nhân đồng cung.
Ví dụ:Lá số có Tiểu Hao tại cung Tỵ, Đại Hao tại Hợi, Hóa Lộc tại Dần, lưu niên tại Dần là Thìn. Do Tiểu Hao cùng hành Hỏa với cung Tỵ, nên tuy có mặt, nhưng ta không thể thấy sự hiện diện của nó tại cung Tỵ. Đại Hao ở cung Hợi có thể thấy được do khác hành với cung Hợi, nhưng lại bị khắc chế làm yếu đi. Duy có Hóa Lộc ở Dần là không bị suy chuyển, có thể thấy được sự hiện diện của sao này tại Dần => Nhật hạn tại cung Dần. Chi nhật hạn là ngày Thìn (ngày cưới).

 

– Từ nhật hạn tìm được, ta dùng trình www.nomna.org để kiểm tra lại và đổi sang ngày dương lịch cần tìm. Hiện nay, mọi người thường cưới hỏi vào thứ 7, chủ nhật nên ngày tìm được nếu không trùng cuối tuần, cần dời lại 1 chút.
Lưu ý:
– Hiện nay, việc xem và tổ chức cưới hỏi đúng y theo nguyên tắc “có kiêng, có lành”, với những đôi lứa không thực hiện tuyệt đối, ngày cưới thật sự của họ khi nghiệm lý lại ta sẽ thấy không đúng nguyệt hạn và cả nhật hạn. Tuy nhiên, tháng có hôn sự, xét lại, vẫn đảm bảo nguyên tắc có sao hỉ tín, trợ hôn.

Vận đào hoa duyên kỳ ngộ phu thê

I. Vận đào hoa:

1/ Cơ hội do đào hoa bẩm sinh:
– Trước hết, ta cần xét xem người đó có đào hoa hay không, cơ hội tự quen người khác phái của họ có hay không, qua các sao Đào Hoa, Hồng Loan, Hoa Cái. Tình duyên là quan hệ giữa người và người nên bắt buộc các sao này phải của ta, ở môi trường mà ta tiếp xúc, môi trường người – người. Nghĩa là cư Mệnh, Quan, Nô, Di.
– Khi Đào Hồng Hoa Cái đi kèm Cô Quả, Thiên Không, Tử Phù, Thiên Hình thì không còn ý nghĩa đào hoa ở người này nữa. Tiểu hạn mà gặp các bộ sao này thì mang ý nghĩa chia tay, chấm dứt 1 mối quan hệ nam nữ xuất phát từ quyết định của ta (đi kèm Cô Quả), xuất phát từ quyết định của người khác (đi kèm Thiên Không, Thiên Hình), bị đau khổ vì tình, thất tình (đi kèm Tử Phù)
– Khi Tuần Triệt cư tại các cung Mệnh Quan Nô Di, dù 3 sao này được hành cung đó sinh vượng thêm thì cơ hội quen người khác phái vẫn sẽ giảm đi rất nhiều, gặp các chính tinh hãm cũng thế. Trường hợp này ta cũng không gọi họ là “đào hoa”, nhưng họ vẫn tự có cơ hội quen người khác phái, tuy chỉ vài ba người (Các chính tinh mình sẽ nói đến ở phần sau)

Phân biệt ý nghĩa về mặt tình duyên của Đào Hoa – Hồng Loan – Hoa Cái:

– Đào hoa là tình cảm đến từ 2 phía, yêu thích lẫn nhau.
– Hồng Loan chỉ tình cảm đối phương dành cho ta nhiều hơn ta dành cho họ, yêu ta nhiều hơn ta yêu họ
– Hoa Cái là sự thu hút, quý mến đơn thuần mà người khác phái dành cho ta, tùy từng trường hợp có thể tiến xa hơn thành người yêu, người chồng, hoặc chỉ dừng lại ở tình bạn. Tình cảm bắt đầu từ tiểu hạn có Hoa Cái là 1 tình cảm không rõ ràng, nửa bạn nửa yêu. Như ngoài đời chúng ta thường nói “…chưa phải người yêu, chỉ đang tìm hiểu thôi”
Có 2 cách đào hoa: đào hoa ngoại tường và đào hoa nội tường (Phần này mình áp dụng từ bài viết về tứ trụ của chú thanhlonghungtran vào tử vi, thấy vẫn chính xác. Đây là link bài viết của chú: “Vận đào hoa – bài trả lời chung”www.lyso.vn/diendan/viewtopic.php?f=39&t=9768&start=10, các bạn có thể đọc để hiểu kỹ hơn. Mình chỉ trích dẫn ngắn gọn dưới đây thôi)

– Trên thiên bàn lá số, căn cứ vào trụ năm, trụ tháng, trụ ngày, trụ giờ thì:

Dần Ngọ Tuất kiến Mão
Tỵ Dậu Sửu kiến Ngọ
Thân Tí Thìn kiến Dậu
Hợi Mão Mùi kiến Tý
ví dụ 1:người sinh giờ tỵ 11-02 -1986 (Đinh tỵ-Quý Hợi-Tân Mão-Bính Dần)
Tứ trụ này lấy chi Năm để tra đào hoa trong đó trên chi năm tìm thấy đào hoa tại chi ngày gọi là đào hoa trong tường
ví dụ 2:Người sinh giờ Dậu 04-04-1986 (Đinh Dậu-Bính Thìn-Quý tị-Bính Dần)
Chữ Dần chi Năm không có Mão của trụ này nên không có dào hoa, Nhưng Thân Tí Thìn Kiến Dậu-> là có Đào hoa.đó là trụ ngày tìm thấy đào hoa trên giờ là chữ Dậu gọi là hoa ngoài tường

a.Đào hoa nội tường:

– Người có cách này thường có được những tình cảm lâu bền, thắm thiết nhiều năm mà đối tượng khác phái dành cho họ. Khi tìm tiểu hạn mà người đó gặp Phu Thê tương lai, ta cần đặc biệt chú ý. Nhất là khi ngoài cách đào hoa nội tường này, họ có 3 sao Đào Hoa, Hồng Loan, Hoa Cái được sinh vượng bởi hành cung Mệnh, Quan Nô, Di. Sẽ có những quan hệ nam nữ ngắn ngủi đan xen giữa mối quan hệ lâu dài này. Nhưng người mà họ đi đến hôn nhân lại thường là người có mối quan hệ lâu năm nhất. (Mình sẽ nói rõ ở phần dưới)
b.Đào hoa ngoại tường:
– Người có cách này thường có những tình cảm sớm nở tối tàn, cả thèm chóng chán, thật nồng nhiệt ban đầu rồi lạnh nhạt chỉ trong thời gian ngắn, “lắm mối tối nằm không”. Có thể gọi là lận đận tình duyên. Khi tìm tiểu hạn mà người đó gặp Phu Thê tương lai, ta cần đặc biệt chú ý. Nhất là khi ngoài cách đào hoa ngoài tường này, họ có 3 sao Đào Hoa, Hồng Loan, Hoa Cái được sinh vượng bởi hành cung Mệnh, Quan Nô, Di. Sẽ có cùng lúc nhiều quan hệ nam nữ ngắn ngủi. Khi thấy có Điếu Khách tại tiểu hạn sau đó, ta đừng vội kết luận họ trở thành “lính phòng không”. Nếu trên lá số vẫn có cơ lập gia đình, thì điều kia chỉ phản ánh những mối quan hệ khác, không phải với vợ/chồng tương lai.

2/ Cơ hội do môi trường:

– Khi các sao chỉ cưới hỏi Thanh Long, Long Trì, Phượng Các, Thiên Đức + Phúc Đức cư tại các cung Quan, Nô, Di.

3/ Cơ hội do người khác tạo (mai mối gián tiếp hoặc trực tiếp):

– Nếu xét bước 1,2 thấy lá số không có cách đào hoa nào cả, ta cũng đừng vội kết luận họ sẽ “ế”. Cần xét thêm các sao hỉ tín trợ hôn. Nếu các sao này an tại các cung chỉ người như Quan, Nô, Di, Phúc, Phụ, Huynh thì những người trong mối quan hệ này là “ông mai, bà mai” trong việc tạo cơ duyên gặp gỡ cho đương số. Cần kết hợp với vị trí của các sao cưới hỏi để luận giải mềm dẻo cho từng trường hợp, sâu sát với thực tế hơn.

4/ Vận đào hoa:

Ta thường bắt đầu mối quan hệ với người khác phái khi có sự thu hút từ người này, hoặc thấy ưng ý, hoặc ham muốn sinh lý, hoặc muốn có chồng có vợ. Do đó nhận biết vận đào hoa khởi từ đại vận, lưu hạn nào qua:
– Sao tình duyên, sao tình dục, yêu đương:
* Đào hoa, Hồng Loan * Thiên riêu, Thai * Mộc Dục, Hoa Cái – Sao chỉ bộ phận nhục thể của nữ và nam: * Văn Xương, Văn Khúc * Kình Dương
– Sao cưới hỏi: Long Trì, Phượng Các, Thanh Long, Thiên Đức + Phúc Đức
– Sao chỉ sự ưng ý:
* Thiên Khôi
* Thiên Việt
– Thái Dương
– Thái Âm
– Thiên Lương – Thiên Cơ hoặc Thiên Đồng (chủ sự thay đổi) – Tham Lang – Liêm Trinh. – Thiên Phủ + TỬ – Thất Sát
– Dựa vào ý từ vận đào hoa theo tứ trụ, khi đại vận đó chỉ có 1 phụ tinh hoặc chính tinh kể trên, ta có thể loại bỏ bớt những lưu hạn nào không cần phải chú ý.
Ví dụ:với người sinh năm 1985, tuổi Ất Sửu, tại đại vận 12 có Thái Âm, màTỵ Dậu Sửu kiến Ngọ, thì bắt đầu tìm khởi vận đào hoa (mối tình đầu) của đương số từ năm Ngọ (sau 12t) của đương số, tức lúc 17t (năm Nhâm Ngọ 2002).
– Tại lưu hạn nào có Liêm Tham thì đây là năm đương số có yêu đương, mối tình đầu. Lưu ý: lưu hạn là tuổi DL. Ví dụ lưu hạn tại năm 17t với người sinh năm 1970 là năm 1987 có mối tình đầu.
– Nếu muốn biết rõ hơn tháng bắt đầu yêu đương, an nguyệt hạn theo năm đó, Thiên Hỉ ứng với nguyệt hạn nào thì đó là tháng hỉ
– Để xét đoán tình cảm năm đó ra sao và rõ ràng hơn, ta kết hợp cung lưu hạn + cung tiểu hạn tương ứng giải đoán.

II. Duyên kỳ ngộ Phu Thê:

– Để tìm năm đương số gặp hôn phối, ta cần xác định hạn hôn nhân trước. Cách xác định mình đã viết trong topic “Hạn hôn nhân”.
– Từ năm có hôn sự này, ta đi ngược dòng thời gian của lưu hạn để tìm năm gặp gỡ (Đào Hồng Hoa Cái), năm yêu đương.
– Nếu ở giữa lộ trình từ năm yêu đương đến năm kết hôn, có Thiên Đức + Phúc Đức hoặc Thanh Long, sẽ có sự hỏi cưới, cầu hôn giữa 2 người.
Lưu ý:
– Với người “đào hoa ngoài tường, nội tường” các bạn nên kết hợp xem xét cả tiểu hạn để tránh nhầm lẫn.
III. Luận đoán mở rộng chi tiết về mối quan hệ và môi trường gặp gỡ:
– Kết hợp mềm dẻo các sao hỉ tín để luận, thường là các sao đôi chúng ta thường nhắc chung khi đề cập. Lưu ý các sao này phải ở các cung có sự hiện diện của con người. Cung Phúc ý nghĩa khá rộng, chỉ anh chị em họ, cô bác, ông bà… nên hạn chế áp dụng hỉ tín để luận tại các cung này. Trừ khi lá số các cung kia không có, ta mới kết hợp cung Phúc.
– Trong lá số, ta có thể kết hợp khéo léo cả cung Điền để luận đây là 1 nơi gặp gỡ buổi đầu. Duy có cung Tật ta không áp dụng.
– Sao hỉ tín, sao trợ hôn: * Thiên hỷ – Hỷ thần * Thanh Long – Lưu Hà * Hóa Lộc – Hoá Kỵ
* Thiên Quan – Thiên Phúc * Thiên Mã – Tràng Sinh * Thiên Mã – Điếu khách – Thiên Khốc * Ân quang – Thiên Quý * Tả Phù – Hữu Bật * Long Đức – Nguyệt đức
* Văn Xương – Văn Khúc – Các sao đôi này, 1 phải ở cung Phu Thê hoặc ở cung có “ông mai, bà mối” gián tiếp hoặc trực tiếp cho ta, 1 phải “kết nối” qua cung khác thì mới áp dụng được. Kết hợp sao cưới hỏi, sao Đào Hồng Hoa Cái làm gốc luận môi trường gặp gỡ. Vài gợi ý về cách luận:
– Ở cung Quan: gặp tại nơi làm việc của 1 trong 2 người, hoặc kết hôn với đồng nghiệp, hoặc được đồng nghiệp mai mối… – Ở cung Di: quen người xa lạ ngoài xã hội, đi đâu gặp…
– Ở cung Nô: cưới bạn cùng lớp học, bạn qua bạn, người bạn bè mai mối cho…
– Ở điền: gặp tại nhà 1 trong 2 người…

Vợ chồng trong tử vi

Các sao trong Tử vi phân bố theo những qui luật nhất định, một trong các qui luật đó là cung Mệnh và cung Phối. Nhiều trường hợp hễ Mệnh có sao này thì cung Phối nhất định phải là sao khác, tức là các sao trong tử vi yêu nhau rất bài bản !

Mệnh Thất Sát thì phối luôn có Thiên Tướng,  Sát nóng nảy khắc nghiệt thì Tướng trung hậu hòa hoãn để bù lại. Tướng có cái thẳng thắn giống Sát nhưng tình cảm, khéo léo. Sát lạnh lùng giá băng nhưng gặp Tướng là “này em ơi em đẹp quá đi thôi, mắt rực tình xé nát tim tôi”! Vẻ hào hoa, phong lưu của Tướng là điều mà một kiếm khách thiện nghệ như Sát rất mơ ước.

Nhưng Tướng lại yêu Tham Lang, Tướng cầu toàn, khó tính nên thích Tham Lang khéo chiều, giỏi giao tiếp. Tham Lang vơ vào để bù lại tính công bằng, vô tư của Tướng. Tướng còn ưa đào kép phong lưu, Tham Lang cũng tham dục vô bờ, nên thành một cặp rất hợp.

Tham Lang lại luôn yêu Thiên Phủ, Tham giàu óc thực tế, trọng vật dục thì người yêu lý tưởng đúng là Phủ rồi. Bản thân đầy đào hoa tính, dễ rung tình thì cần tìm đối tượng bình ổn mà yêu. Phủ vừa có điều kiện vừa ôn hậu chính là mơ ước của Tham Lang. Trong các sao Phủ tốt hàng đầu, không như Tử vi là vua chung, Phủ trực tiếp quản lý tài sản, có tính vượng tài nên là đối tượng của nhiều sao. Tham Lang có lẽ là thợ săn thiện nghệ, vồ ngay Thiên Phủ làm phối ngẫu !

Nhưng Thiên Phủ lại chỉ yêu Phá Quân, điều này thật lạ lùng, kẻ hữu sản, tính cách thâm trầm như Phủ lại đi yêu Phá vừa xấu vừa nóng nảy, tự đắc. Phủ không cần tiền tài ở Phá nhưng có lẽ thích “cá tính” mạnh, ưa độc đáo mới lạ của Phá. Phá luôn mới mẻ, cập thời, có khả năng chủ động cao, thêm tính kiêu căng tự đắc, ưa tiêu xài để cân bằng lại tính ôn hòa, hữu sản của Phủ. Phá còn ham lao động, cần cù chăm chỉ nên càng hợp ý Phủ.

Phá Quân tự mình lại không yêu riêng ai. Lúc thì yêu Tử Vi, khi thì Vũ Khúc, Liêm Trinh. Tức là Phá tạp loạn, ghen ghét Tử vi chính thống nhưng thực ra vì Phá luôn mơ ước cái ghế của Tử vi, nên có khi lại lấy Tử vi. Còn Vũ Khúc kho tài Phá yêu để có ngân quỹ cho chiến dịch tranh cử lật đổ Tử vi là đúng rồi. Nhưng Liêm Trinh nghèo thế sao Phá lại yêu ? Đó là vì khi đó Phá cư Thìn Tuất đại bất lương, nên vì thế chỉ ôm được Liêm cơ hàn, các sao khác đều sợ mà tránh xa. Khi đi cùng chính tinh khác, như Vũ Phá, Tử Phá, Liêm Phá thì cung Phối lại luôn vô chính diệu, tức là Phá bản chất sân hận đố kỵ nên ông không ưa lựa chọn của tôi thì tôi cũng chả cho ông yêu ai, thế là đành lấy vô chính diệu không cá tính, vô tâm vô địa để tha hồ chỉ huy lên mặt. Các cặp sao đôi của Phá đều xấu nên chỉ yêu được vô chính diệu là hợp lý vì vô chính diệu không đủ tầm nhận ra cái dở của cặp đó !

Thiên Cơ luôn yêu Thái Dương, kẻ cơ hội linh hoạt mưu mẹo thì thích ông triết lý bài bản, có uy quyền. Cơ như mưu sỹ đi tìm quyền lực mà nhờ cậy thì Thái Dương chính là hình ảnh mơ ước trong lòng. Cơ gặp Nhật lập tức rên rẩm ôi ánh sáng của đời tôi là đây rồi, chả cần gì hơn !

Nhưng Thái Dương lại chỉ yêu Thiên Đồng, kỳ lạ thay, kẻ ưa triết lý lại thích cô vui vẻ đỏng đảnh, có lẽ để bù lại cái tính khắc nghiệt của bản thân. Nên ngày xưa các cụ đồ nho nhã thế mà rất ưa những trò tom chát, thích gái má phấn môi hồng, vì đó là cách để cân bằng lại mớ chữ nghĩa rối rắm trong lòng. Thiên Đồng chỉ cần tung tẩy phe phẩy cái áo mớ ba mớ bảy là Thái Dương xổ tung hết chữ nghĩa, lăn vào chết mê chết mệt. Ấy bao nhiêu chữ cũng chả hay bằng em đây !

Thiên Đồng chả yêu riêng ai, bản tính dễ thay đổi, lông bông vô định, đứng riêng thì yêu vô chính diệu hoặc Thiên Lương, đi cặp với sao khác thì yêu chung người tình của sao đó. Tức là cô em xinh đẹp vui vẻ được Thái Dương rất yêu nhưng để em tự chọn thì em lại chả yêu riêng ai, vậy Thiên Đồng có tính đa duyên, dễ yêu, dễ kết hôn.

Thiên Lương luôn yêu Cự Môn, lại là sự bất ngờ, kẻ hiền lành đạo đức lại đi  thích Cự Môn đa ngôn bép xép lắm lời. Lương ôn nhu, thành thực nên có lẽ thật thà thường thua thiệt, vì thế yêu Cự Môn đa xảo điêu trá để cân bằng lại. Cự mờ ám bất tường mà làm Lương yêu thì suy ra Thiên Lương óc xét đoán kém, không mạnh về tinh thần. Lương có thể là ông thầy giỏi lý thuyết hơn là tham gia vào các hành động thực tế.

Cự Môn lại yêu Thái Âm, kẻ đa ngôn giảo hoạt mờ ám cần có Nguyệt chiếu sáng để đỡ âm ám, rất hợp lý. Cự còn là sao cá tính cực đoan hay bất mãn nên cần Nguyệt mềm yếu nhu thuận, để khỏi xảy cãi vã mâu thuẫn, do Cự lúc nào cũng sẵn sàng tuôn hàng tràng những lời khó nghe.

Thái Âm chả yêu riêng ai vì Nguyệt bản chất đa cảm, ướt át, đa tình, dễ rung động. Tại Mão Dậu Nguyệt yêu Thiên Cơ nhanh nhẹn linh hoạt. Còn các vị trí đơn thủ khác hoặc đi với Thiên Đồng, Nguyệt chỉ yêu vô chính diệu, để tỏa sáng bản thân mình sang đối tác dù có khi đang mờ mịt u ám (Nguyệt cư Thìn, Tỵ, Ngọ). Từ đó suy ra Thái Âm chỉ yêu chính mình nhất. Nguyệt có tính mê hoặc, ánh trăng có ảnh hưởng rất mạnh đến sự hứng tình của nhiều sinh vật, điều này đã được khoa học biết đến.

Liêm Trinh có tính nghèo lại khắc nghiệt ít tình cảm nên tình ít, khi đi cặp với các sao khác Liêm yêu chung bồ ruột của các sao kia. Còn một mình ở Dần Thân Liêm yêu Thất Sát vì Sát cũng nóng nảy, mạnh mẽ. Sách vở cho Liêm có tính đào hoa, vậy tại sao tình lại ít, vì Liêm chính trực, lý trí mạnh mẽ nên không để tình cảm chi phối. Tình yêu của Liêm nặng vì nghĩa hơn vì tình !

Vũ Khúc không yêu riêng sao nào, đi cặp với Phá, Sát, Tham, Phủ, Tướng thì cung Phối là các sao tình nhân của sao đi cùng. Đi với Phá thì yêu vô chính diệu, tức Vũ Khúc không có tình cảm rõ ràng, thêm tính khắc kỷ nên cô độc. Riêng tại Thìn Tuất đơn thủ thì Vũ yêu Thất Sát, y như Liêm Trinh, vậy Liêm và Vũ phải có tính cách gì đó giống nhau, đó là lý trí mạnh, là sự tiêu xài cẩn thận, yêu Sát vì Sát luôn rạch ròi rõ ràng, không sợ bị lập quỹ đen !

Tử Vi đế tinh thường đi kèm chính tinh khác, nên cung phối là tình nhân của sao đó. Khi đứng riêng một mình ở Tý Ngọ, Tử vi chỉ yêu Thất Sát, ngôi sao nóng nảy mạnh mẽ. Điều này thật kỳ lạ vì Thất Sát được tới 3 sao đơn thủ yêu, đó là Tử Vi, Liêm Trinh, Vũ Khúc. Vậy Sát phải có cái gì đặc biệt hơn các sao khác, đó là cá tính độc lập, chủ động, mạnh mẽ quyết đoán. Sát giỏi nghề thạo việc, đương đầu tốt với nghịch cảnh, chả bao giờ yếu đuối ngã lòng. Sát có sức sống mạnh, là một ưu thế trong đấu tranh sinh tồn, Sát hấp dẫn các sao mạnh mẽ giống mình.

Cuối cùng là Mệnh vô chính diệu, tình như gió bay, yêu đương lung tung, chả có chủ kiến gì cả. Lúc thì yêu chính tinh, đó là Thiên Lương, Thiên Cơ, Vũ Sát, Liêm Sát, Tử Sát, lúc lại yêu vô chính diệu. Vô chính diệu hợp Nhật Nguyệt mà không bao giờ Mệnh vô chính diệu cung Phối là Nhật Nguyệt cả, điều kỳ lạ này càng cho thấy tính hạn chế trong đầu óc của vô chính diệu. Nguyệt yêu nhất vô chính diệu để lợi cho cả hai, nhưng vô chính diệu thì không biết thế. Trăng soi sân nhỏ làm khoảng sân sáng rực nhưng chính cái sân trống rỗng đó lại không tự biết thế là hay. Nguyệt in bóng nước lung linh tuyệt đẹp mà nước không tự biết, thay vì yêu trăng, nước lại mê mải với những bóng mây trôi ngang…

Tổng hợp lại, có thể rút ra một số qui luật đặc biệt. Mệnh có Tử Phủ Vũ Tướng thì phối luôn là Sát Phá Liêm Tham và ngược lại. Hai bộ sao mạnh mẽ hàng đầu này yêu nhau thắm thiết, vậy phải có cái gì tương đương nhau ở cá tính, sự mạnh mẽ. Và để bù trừ, các cặp sao đó cũng có những điểm trái ngược.

Bộ Cơ Nguyệt Đồng Lương luôn chỉ yêu Cự Nhật, hoặc xen vào vô chính diệu, sự nhu hòa thiếu cá tính mạnh mẽ của bộ sao này thể hiện cả trong tình yêu. Nhưng nếu vì thế mà không yêu Tử Phủ Vũ Tướng hay Sát Phá Liêm Tham thì thật kỳ lạ. Có lẽ vì tình yêu, hôn nhân xuất phát từ cái gì đó sâu xa hơn hẳn là tình cảm cá nhân của con người !

Tử vi cũng chỉ ra nguyên nhân của các mối tình tay ba. Rõ ràng là anh yêu tôi nhất nhưng tôi lại yêu người khác nhất. Sát yêu Tướng nhưng Tướng yêu Tham, Tham lại yêu Phủ, Phủ thì yêu Phá, cứ như đèn cù nó chạy vòng quanh.

Như vậy, việc phân bố sao Tử Vi vào Mệnh Phối tuân theo các đặc điểm rất rõ ràng thể hiện qua các cặp sao, bộ sao. Từ đó suy ra con người trong xã hội theo quan niệm Á Đông cũng có những thể tạng khác biệt, có thể phân loại giống như khoa học phương Tây đang làm. Chỉ có điều Tử vi đã làm điều đó từ hàng ngàn năm trước phương Tây…

Nguồn: Dichhoc.wordpress.com